Vì sao sự phát triển hành động chỉ trỏ lại quan trọng đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ có rối loạn phổ tự kỷ? Dưới đây là những chia sẻ của bác sĩ tâm lý Phan Thiệu Xuân Giang chuyên gia có hơn 20 năm kinh nghiệm đồng hành cùng trẻ rối loạn phổ tự kỷ ở nhiều vai trò khác nhau.
Ngón trỏ (index finger) được coi là ngón quan trọng nhất sau ngón cái (thumb) vì tính di động và sự gắn kết cơ bắp độc lập của nó. Nó được cho là có tính năng ảnh hưởng nhất trong bốn ngón tay và chiếm 20% lực kẹp bên, 20% lực kẹp từ vị trí nằm ngửa của cẳng tay (supinated forearm) và 50% lực kẹp từ vị trí cẳng tay nằm sấp (pronated forearm).
Trước khi trẻ nói được các từ, trẻ dùng ngón trỏ để chỉ nhằm giao tiếp với người khác, nhằm cho người khác thấy điều trẻ muốn, nhằm chia sẻ sự vui thích của trẻ về đồ vật nào đó với người khác. Chỉ tay là dấu hiệu giao tiếp sớm rồi sau đó là ngôn ngữ. Chỉ tay là con đường dẫn đến ngôn ngữ sớm, khi trẻ chỉ tay vào đồ vật nào đó lặp lại, kèm theo sự chú ý và việc đặt tên lập lại, việc hình thành tên gọi cho đối tượng được bắt đầu.
Chỉ tay phát triển rất sớm, từ 10 – 12 tháng trẻ có thể biết dùng ngón trỏ để chỉ cùng với các cử chỉ khác như vẫy tay, giơ tay lên để được bế, lắc đầu để thể hiện không, gật đầu thể hiện có…
Chỉ trỏ tay (pointing) cũng thể hiện chức năng vận động tinh, ở giai đoạn sơ sinh, khi trương lực cơ gấp (flexor) tăng do sự ức chế của vỏ não chưa đủ, trẻ thường nắm tay và ngón cái gập vào trong, nếu dấu hiệu này còn kéo dài đến vài tháng tuổi thì cần xem trẻ có bất thường về chức năng vận động của vỏ não như bại não gồng cứng không? Dấu hiệu ngón cái gập vào trong và các ngón khác nắm đè lên ở quá tuổi cho phép, được gọi là ngón cái vỏ não (cortical thumb).


Khi vỏ não trưởng thành, các ngón tay có thể gập mở linh hoạt hơn, trẻ có thể dùng chức năng cầm nắm theo cách các ngón gập lại vào lòng bàn tay (palmer grasp), việc cầm nắm lúc này còn vụng về. Khi trẻ biết cầm hay “gắp” đồ vật bằng ngón trỏ và ngón cái (pincer grasp), lúc này chức năng vận động tinh trở nên tinh tế và chi tiết hơn, trẻ có được mốc này ở khoảng 12 tháng, đồng thời với kỹ năng này là trẻ biết dùng ngón trỏ để chỉ.
Sự phát triển như vậy cần sự phối hợp của nhiều vùng não khác nhau liên quan đến thị giác ở vùng chẩm (visual cortex), vỏ não vận động (motor cortex) liên quan đến điều khiển ngón tay, vỏ não trán trước (prefrontal cortex) liên quan đến chức năng hoạch định, chức năng xã hội…
Trẻ tự kỷ thường không biết chỉ hoặc biết chỉ bằng cả bàn tay hoặc biết chỉ trễ hơn sau khi được huấn luyện. Sự khó khăn này có liên quan đến chức năng giao tiếp và tương tác sớm, đặc biệt là giao tiếp qua cử chỉ, sự phối hợp của cử chỉ và lời nói, giao tiếp mắt, chú ý chung….
Có những trẻ tự kỷ lúc đầu chức năng chỉ trỏ và chú ý chung không có nhưng do có tiềm năng và được can thiệp phù hợp nên có tiến bộ rõ rệt nên triệu chứng nhạt đi, kèm theo chức năng trí tuệ khá tốt, khả năng có được ngôn ngữ và giao tiếp qua lại nhiều hơn nên triệu chứng giảm hẳn và có khi không còn đủ triệu chứng chẩn đoán.
Các tình huống này làm cho phụ huynh tưởng rằng trẻ không bị tự kỷ và được chẩn đoán sai. Nhưng thực ra, khi tương tác sâu vẫn nhận ra trẻ có các vấn đề về xử lý cảm xúc tinh tế, sự rập khuôn, cứng ngắc, không có bạn thân và gặp khó trong các tình huống giao tiếp, tương tác xã hội đòi hỏi nhiều kỹ năng.
Ở trẻ lớn hay người lớn bị ASD có chức năng cao, có khi hay sử dụng các chiến lược bù trừ (compensation) để che giấu như cần tập dượt trước các kỹ năng xã hội mà bình thường người ta có thể sử dụng một cách tự nhiên, thoải mái. Sự bù trừ lâu dài này có khi gây căng thẳng và mệt mỏi.
Có những trẻ ASD vẫn không biết chỉ cho đến lớn, kèm theo ngôn ngữ kém, thường dùng các phương thức như kéo tay, đẩy người khác để đòi theo ý mình, các trẻ này dễ phát triển các hành vi không mong muốn như la khóc, ăn vạ….
Việc hiểu được sự phát triển của chỉ trỏ, sự phối hợp với các lãnh vực phát triển khác, ý nghĩa của chức năng này trong giáo tiếp và tương tác sớm, giúp nhà chuyên môn định hướng được điều cần can thiệp thiết yếu theo tầng bậc thay vì chỉ tập trung vào ý muốn chủ quan hay đòi hỏi chung của xã hội như “bao giờ trẻ biết bật âm?”, “bao giờ trẻ biết đọc? Biết làm toán?”, ” liệu trẻ có đi học được không?”, ” bằng giá nào trẻ cũng phải vào lớp Một lúc 6 tuổi”…
Việc lượng giá trong chẩn đoán hay can thiệp không đơn thuần là chỉ thấy triệu chứng lẻ tẻ hay hướng can thiệp, mục tiêu can thiệp đơn lẻ mà thấy được sự tương quan, ví dụ: Chú ý chung (joint attention) bao gồm nhiều lãnh vưc nhỏ: chú ý, đáp ứng tên gọi, giao tiếp mắt, dõi theo, di chuyển chú ý, chỉ trỏ, tạo âm, ngôn ngữ…
Để lại một bình luận