Bạn đã từng bắt gặp biểu tượng này trên các trang mạng, mốt số sách báo, trên tấm áp phích ở các cuộc hội thảo về chứng rối loạn phổ tự kỷ? Biểu tượng với nhiều mảnh ghép và sự kết hợp nhiều màu sắc này có ý nghĩa gì?
Bạn nghĩ đến điều gì khi nghe đến “Biểu tượng của chứng tự kỷ?” Nếu quen thuộc với tình trạng này, ít nhất là ở một mức độ nào đó, bạn sẽ ngay lập tức nghĩ đến màu xanh, đỏ, vàng, dấu vô cực hoặc thậm chí là con bướm. Những mảnh ghép thể hiện tình trạng liên quan đến thần kinh.
Nên biết rằng những biểu tượng này không chỉ được chọn vì chúng trông đẹp hay vì những lý do phù phiếm khác. Mỗi biểu tượng được sử dụng để biểu thị chứng tự kỷ đều có ý nghĩa riêng.
Từ năm 1999, biểu tượng vô cực với những mảnh ghép đầy màu sắc được công nhận là biểu tượng về sự nhận thức của thế giới về tự kỷ trong xã hội. Hình ảnh được kết hợp với các mảnh ghép tươi sáng và đa dạng màu sắc xanh, đỏ, vàng. Những mảnh ghép hình đa dạng đặc trưng, nhiều màu sắc tượng trưng cho tính đa dạng và sự phức tạp của chứng rối loạn tự kỷ.
Biểu tượng vô cực là một sự thay thế hiện đại được tạo ra để truyền cảm hứng cho những suy nghĩ về sự hòa nhập. Nó thường là một màu đơn sắc hoặc được mô tả bằng màu sắc của cầu vồng. Vì biểu tượng vô cực không có điểm bắt đầu hay kết thúc nên nó được tạo ra để thể hiện sự kết nối lâu dài trong cộng đồng người tự kỷ và nhấn mạnh cam kết thúc đẩy một xã hội nơi mọi người đều được trân trọng và đón nhận.
Biểu tượng vô cực là một biểu tượng mạnh mẽ đã được nhiều cộng đồng chấp nhận, bao gồm cả những người ủng hộ nhận thức về chứng tự kỷ. Hình dạng của nó, giống như hình số tám nghiêng, truyền tải ý tưởng về sự vô tận hoặc vô biên, điều này cộng hưởng sâu sắc với nhiều khía cạnh của trải nghiệm tự kỷ.
Hình dạng của biểu tượng vô cực, với vòng lặp liên tục, tượng trưng cho các chu kỳ và kết nối. Đối với nhiều người, nó phản ánh hành trình liên tục của việc tự khám phá, học hỏi và phát triển mà những cá nhân mắc chứng tự kỷ trải qua. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu và chấp nhận sự khác biệt thay vì coi chúng là khiếm khuyết.
Vòng lặp vô cực truyền tải cảm giác thống nhất, ó biểu thị rằng mặc dù trải nghiệm có thể khác nhau, nhưng có một mối liên hệ chung giữa những người tự nhận mình là người tự kỷ. Sự kết nối này thúc đẩy cộng đồng, sự đồng cảm và hỗ trợ, những yếu tố thiết yếu cho những cá nhân đang điều hướng sự phức tạp của chứng tự kỷ.
Sự rực rỡ của biểu tượng vô cực chính là niềm hy vọng rằng từ nâng cao nhận thức về tự kỷ trong xã hội, thông qua những chương trình can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ với đầy đủ phương tiện về giáo dục, phương pháp trị liệu, trẻ tự kỷ sẽ trở thành những mảnh ghép vẹn toàn hơn và hòa nhập với xã hội tốt hơn.
Thông qua biểu tượng của chứng rối loạn phổ tự kỷ thể hiện thông điệp “Tôi không một mình. Tôi là một phần của mảnh ghép cuộc sống. Tôi là một cá thể riêng biệt, có những khả năng cũng như thách thức riêng“.
Hiện tại, không có biểu tượng tự kỷ chính thức. Tuy nhiên, có khá nhiều biểu tượng được công nhận được sử dụng để biểu thị tình trạng này. Lý do là vì tự kỷ thực sự là một phổ các rối loạn, nghĩa là nó biểu hiện theo nhiều cách khác nhau. Do đó, đều nhằm mục đích nâng cao nhận thức về các biểu hiện độc đáo của phổ tự kỷ.
Trong cộng đồng tự kỷ, biểu tượng nâng cao nhận thức về chứng tự kỷ không chỉ đơn thuần là sự đại diện; nó đóng vai trò là điểm tập hợp cho hoạt động vận động, giáo dục và chấp nhận. Việc sử dụng biểu tượng vô cực ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là trong Tháng nâng cao nhận thức về chứng tự kỷ và nhiều chiến dịch công cộng khác nhau nhằm nâng cao hiểu biết về chứng tự kỷ.
Định nghĩa
Tự kỷ là một dạng bệnh trong rối loạn phát triển lan toả hay còn gọi rối loạn phổ tự kỷ, khởi phát sớm trong 3 năm đầu tiên của cuộc đời, tác động đến sự phát triển của trẻ trong 3 lĩnh vực chính như: tương tác xã hội, ngôn ngữ và hành vi. Tự kỷ là một rối loạn mãn tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển trí tuệ và hành vi cũng như khả năng học tập, sinh hoạt và khả năng thích ứng của trẻ sau này.
Thuật ngữ
Trước đây thuật ngữ “tự kỷ” không thấy xuất hiện trong Y khoa, nhưng đến năm 1943 một nhà tâm thần học người Áo tên là Leo Kanner đã mô tả một nhóm 11 trẻ có những biểu hiện phát triển không bình thường như: có những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khiếm khuyết trong quá trình phát triển ngôn ngữ, có những hành vi kỳ lạ lặp đi lặp lại nhiều lần, khởi phát sớm trước 3 tuổi và khái niệm “tự kỷ” được ra đời từ đó.
Năm 1944, một bác sĩ Nhi khoa người Áo tên là Hans Asperger đã mô tả một dạng tự kỷ nhẹ hơn Kanner mô tả rất nhiều. Sau này, người ta lấy tên ông đặt cho rối loạn này gọi là hội chứng Asperger.
Ngày nay, người ta dùng thuật ngữ “Rối loạn phát triển lan tỏa” hoặc “Rối loạn phổ tự kỷ” để mô tả các trẻ em có các rối loạn phát triển trên 3 lĩnh vực chính: tương tác xã hội, rối loạn ngôn ngữ và hành vi. Rối loạn phát triển lan tỏa gồm có 5 rối loạn chính: Tự kỷ, hội chứng Asperger, hội chứng Rett, rối loạn tan rã ở trẻ em và tự kỷ không điển hình. Trong đó “tự kỷ” (tự kỷ không điển hình) và “hội chứng Asperger” là những rối loạn rất thường gặp nhất.
Nguyên nhân
Trước đây Kanner cho rằng do nguyên nhân tâm lý do bà mẹ vô cảm “băng giá”. Các nhân tố tâm lý xã hội và gia đình chỉ là những yếu tố làm bệnh nặng lên chứ không phải là nguyên nhân gây bệnh. Khoa học ngày càng phát triển thì có nhiều bằng chứng cho thấy tự kỷ là một rối loạn sinh học trong sự phát triển của não.
Gần đây chụp cộng hưởng từ MRI phát hiện teo thuỳ nhộng của tiểu não tăng bất thường các tiểu thuỳ võ não (Polymicrogyria). Giải phẫu bệnh vi thể thấy giảm sút số lượng các tế bào Purkinje. Chụp PET còn thấy rối loạn chuyển hoá lan tỏa ở vỏ não.
Các yếu tố di truyền: Ở trẻ sinh đôi khác trứng tỷ lệ là 25%, ở trẻ sinh đôi cùng trứng tỷ lệ lên đến 60-92%. Tự kỷ còn tương quan với tỷ lệ cao mắc hội chứng “gãy nhiễm sắc thể X” và một bệnh não di truyền khác là bệnh xơ não củ (di truyền nhiễm sắc thể Autosom trội). Các nghiên cứu giải mã AND gần đây còn phát hiện các gen liên quan đến bệnh tự kỷ nằm ở nhiễm sắc thể số 2,3,7,15,17 và số 22.
Các yếu tố khác: yếu tố miễn dịch, các biến chứng chu sinh, các bất thường về giải phẫu thần kinh, một số rối loạn về chuyển hoá sinh hoá não đã được phát hiện là có liên quan đến bệnh sinh của chứng tự kỷ.
Biểu hiện
Biểu hiện trong rối loạn phổ tự kỷ nói riêng cũng như rối loạn phát triển lan toả nói chung người ta nói đến tam chứng rối loạn. Đó là rối loạn các mối quan hệ tương tác xã hội, rối loạn quá trình phát triển ngôn ngữ và rối loạn hành vi.
Thiếu sót những kỹ năng tương tác xã hội: Trẻ thích chơi một mình, ít hoặc không quan tâm đến bạn cùng trang lứa, chơi không hòa đồng được với bạn (thường ngồi cách xa, xô đẩy bạn, đánh bạn,…), thờ ơ không quan tâm đến những người xung quanh, thiếu sự trao đổi qua lại về mặt tình cảm với người xung quanh, thiếu tiếp xúc bằng mắt, không đáp ứng với lời nói, không nhận thức được việc cần phải giao tiếp với những người xung quanh…
Rối loạn ngôn ngữ giao tiếp: chậm hoặc hoàn toàn không có ngôn ngữ nói, đôi khi nói theo ngôn ngữ riêng, hoặc phát ra những âm thanh vô nghĩa. Với những trẻ có khả năng nói, thì trẻ gặp rất nhiều khó khăn khi bắt đầu câu chuyện và duy trì việc đối thoại, ngôn ngữ giao tiếp nghèo nàn, có khi lặp lại hoàn toàn câu hỏi của người khác.
Rối loạn hành vi: các họat động lặp lại định hình những cử động thân thể (vỗ tay, cử động tay bất thường, lắc người, đi nhón gót, xoay vòng tròn, chạy vòng quanh một vật cố định…). Tập trung quá mức vào các bộ phận của đồ vật.
Những hành vi tăng động, đập phá, cơn giận dữ, tăng động xen lẫn thụ động, hành vi tự huỷ hoại (đập đầu , cắn tay…), hành vi tấn cộng trẻ khác…Các rối loạn kèm theo rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống, rối loạn lo âu trầm cảm, rối loạn cảm nhận về các cơ quan giác quan.
Điều trị
Có rất nhiều phương pháp can thiệp được đưa ra nhằm giúp trẻ cải thiện các kỹ năng bị thiếu sót, hạn chế các rối loạn hành vi trong quá trình phát triển, để giúp trẻ phát triển và hòa nhập xã hội tốt hơn. Muốn trẻ được phát triển tốt, điều trước tiên là phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và có những biện pháp can thiệp phù hợp. Các phương pháp can thiệp chính và có hiệu quả nhất được ghi nhận hiện nay là can thiệp giáo dục đặc biệt.
Can thiệp giáo dục đặc biệt có rất nhiều các phương pháp giáo dục tác động đến trẻ tự kỷ, nhưng sau đây là những phương pháp giáo dục đã được chứng minh là có hiệu quả tác động tích cực đến trẻ tự kỷ: Phân tích hành vi (ABA), trị liệu ngôn ngữ, hướng dẫn các kỹ năng xã hội và trị liệu hoà hợp giác quan.
Để lại một bình luận